Bản quyền là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực sáng tạo và trí tuệ. Nó giúp cho những người sáng tạo và đóng góp cho xã hội có thể được bảo vệ quyền lợi của mình về mặt tài chính và pháp lý. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu bản quyền có được tự động bảo hộ tại nước ngoài hay không? Bài viết sau đây, chúng tôi sẽ cùng bạn đọc tìm hiểu nội dung Bản quyền có được tự động bảo hộ tại nước ngoài không ?
Quy định về bản quyền tại Việt Nam
Tại Việt Nam, bản quyền (hay quyền tác giả) là một quyền thuộc quyền sở hữu trí tuệ.Bản quyền là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
Căn cứ Khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2022: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.”
Như vậy, bản quyền được phát sinh từ thời điểm tác giả sáng tạo tác phẩm, không quan trọng việc tác giả đã đăng ký bảo hộ bản quyền cho tác phẩm đó hay chua.
Quy định về bản quyền tại quốc tế
Hiện nay, có một số thỏa thuận quốc tế về bảo hộ bản quyền mà các quốc gia đã ký kết, như Hiệp định Berne và Hiệp định Madrid. Những thỏa thuận này tạo ra một hệ thống quốc tế cho phép các tác phẩm được bảo hộ ở một quốc gia và được công nhận và bảo vệ ở các quốc gia khác. Ví dụ, Khoản 2 Điều 5 Công ước Berne quy định như sau :
“Việc hưởng và thực hiện các quyền tác giả không lệ thuộc vào một thể thức, thủ tục nào; việc hưởng và thực hiện này hoàn toàn độc lập không tùy thuộc vào việc tác phẩm có được bảo hộ hay không ở Quốc gia gốc của tác phẩm. Do đó, ngoài những quy định của Công ước này, mức độ bảo hộ cũng như các biện pháp khiếu nại dành cho tác giả trong việc bảo hộ quyền của mình sẽ hoàn toàn do quy định của Luật pháp của nước công bố bảo hộ tác phẩm đó.”
Ngoài ra, một số quốc gia đã ký kết các thỏa thuận song phương về bảo hộ bản quyền với nhau, nhằm đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp và cá nhân trong việc đăng ký và bảo hộ bản quyền tại các quốc gia đối tác.
Theo Khoản 3 Điều 5 Công ước Berne:
“Việc bảo hộ tại Quốc gia gốc do Luật pháp của Quốc gia đó quy định. Tuy nhiên, khi tác giả không phải là công dân của Quốc gia gốc của tác phẩm được Công ước này bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng tại Quốc gia này những quyền như các tác giả là công dân của nước đó.”
Như vậy, việc bản quyền có được tự động bảo hộ tại nước ngoài hay không phụ thuộc vào quy định của pháp luật bản quyền trong từng quốc gia cụ thể. Tuy nhiên, có một số tiêu chuẩn và thỏa thuận quốc tế như Công ước Berne, Hiệp định TRIPS và Hiệp định Madrid cho phép việc đăng ký bản quyền hoặc đăng ký nhãn hiệu tại một quốc gia được công nhận tại các quốc gia thành viên khác.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, đặc biệt là khi các doanh nghiệp có quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ ở nước ngoài, việc bảo vệ quyền lợi này cần phải thông qua đăng ký bản quyền tại quốc gia đó. Việc này giúp đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu và tránh việc bị xâm phạm bản quyền từ các đối tác kinh doanh tại đó.
Khuyến nghị của Công ty TNHH Luật Hải Việt:
Bài viết được chuyên gia của Công ty TNHH Luật Hải Việt thực hiện nhằm mục đích phổ biến kiến thức pháp luật, không nhằm mục đích thương mại. Quý vị bạn đọc có thắc mắc, cần tư vấn vui lòng liên hệ qua hotline: 0943.812.889, E-mail: luathaiviet@gmail.com
Pingback: Chỉ dẫn địa lý và nhãn hiệu tập thể khác nhau như thế nào? - Công ty TNHH Luật Hải Việt